Tăng nhãn áp là một loại bệnh lý thường gặp ở những người từ độ tuổi trung niên trở lên. Theo số liệu thống kê từ một nghiên cứu, có tới 9,4% người trên 40 tuổi mắc phải tình trạng này. Tăng nhãn áp không chỉ gây ảnh hưởng đến thị lực, sức khỏe mắt, mà thậm chí còn có thể dẫn đến mù lòa.
Một nghiên cứu mới tại Đại học California, Irvine cho thấy lão hóa mắt là tác nhân lớn khiến các tế bào hạch võng mạc bị tử vong ở bệnh tăng nhãn áp. Cũng dựa vào nguyên nhân này, các bác sĩ đã hướng tới những phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân tăng nhãn áp theo một con đường tắt. Lão hóa võng mạc do căng thẳng gây ra các triệu chứng tương tự như các triệu chứng xảy ra tự nhiên khi lão hóa.
Nghiên cứu được công bố trên Tập san Aging Cell, được tiến hành bởi tiến sĩ Dorota Skowronska-Krawczyk và các đồng nghiệp của bà. Nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thay đổi biểu sinh và phiên mã xảy ra ở võng mạc lão hóa và mức độ căng thẳng. Chẳng hạn như tăng áp lực nội nhãn (còn gọi lại tăng huyết áp mắt) gây ra những thay đổi ở võng mạc tương tự như những thay đổi có thể thấy được trong quá trình lão hóa tự nhiên. Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy căng thẳng lặp đi lặp lại ở mô võng mạc non có thể dẫn đến lão hóa nhanh hơn.
Lão hóa là một quá trình phổ biến và có tác động đến toàn bộ các tế bào trong cơ thể. Về mắt, đó là một yếu tố rủi ro chính đối với một nhóm các tình trạng thần kinh được gọi là bệnh tăng nhãn áp. Do sự gia tăng dân số già toàn cầu, các ước tính hiện tại cho thấy số bệnh nhân tăng nhãn áp (40-80 tuổi) sẽ tăng lên hơn 110 triệu vào năm 2040.
Khi nhóm do UCI dẫn đầu điều tra về vấn đề thần kinh thị giác của mắt được điều trị bằng áp lực tăng nhẹ, họ nhận thấy rằng, ở các đầu dây thần kinh thị giác non, không có dấu hiệu mất sợi trục. Tuy nhiên, trong các dây thần kinh thị giác của động vật già, người ta đã quan sát thấy sự mất sợi trục hình quạt rõ rệt, tương tự như kiểu hình thường thấy ở bệnh nhân tăng nhãn áp.
Tiến sĩ Skowronska-Krawczyk cho biết: “Công trình của chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chẩn đoán và phòng ngừa sớm, cũng như quản lý cụ thể các bệnh liên quan đến tuổi tác, bao gồm cả bệnh tăng nhãn áp. Những thay đổi biểu sinh mà chúng tôi quan sát được cho thấy rằng những thay đổi ở cấp độ nhiễm sắc thể xảy ra theo kiểu tích lũy sau một số phiên điều trị căng thẳng. Điều này cho chúng ta cơ hội để ngăn ngừa mất thị lực nếu và khi bệnh được xác định sớm.”
Khi tiến hành đo áp lực nội nhãn (IOP) có nhịp sinh học. Kết quả cho thấy, ở người khỏe mạnh nhãn áp thường dao động trong khoảng 12-21 mm Hg và có khoảng 2/3 số người có nhãn áp cao nhất vào ban đêm. Do biến động IOP, một phép đo IOP đơn lẻ thường không đủ để mô tả bệnh lý thực sự và nguy cơ tiến triển bệnh ở bệnh nhân tăng nhãn áp. Biến động IOP mãn tính được cho là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về sự tiến triển của bệnh tăng nhãn áp. Nghiên cứu mới cũng cho thấy tác động tích lũy của dao động áp lực nội nhãn góp phần trực tiếp vào quá trình lão hóa của các mô.
“Các quan sát của chúng tôi cho thấy rằng ngay cả khi IOP thủy tĩnh tăng nhẹ, khi thực hiện trên động vật già, cũng dẫn đến mất tế bào hạch võng mạc và khiếm khuyết thị giác tương ứng. Chúng tôi đang tiếp tục nỗ lực tìm hiểu cơ chế thay đổi tích lũy để tìm ra các mục tiêu điều trị tiềm năng, đồng thời thử nghiệm các phương pháp khác nhau để ngăn chặn quá trình lão hóa tăng tốc do căng thẳng gây ra,” Tiến sĩ Skowronska-Krawczyk nói.
Các nhà nghiên cứu hiện có một công cụ mới để ước tính tác động của căng thẳng và điều trị đối với tình trạng lão hóa của mô võng mạc, giúp cho những phát hiện mới này trở nên khả thi hơn. Làm việc với Tiến sĩ Steve Horvath của phòng thí nghiệm Altos, người đã đi tiên phong trong việc phát triển đồng hồ biểu sinh đo tuổi dựa trên những thay đổi trong quá trình methyl hóa trong DNA mô, đã chỉ ra rằng Độ cao IOP nhẹ, lặp đi lặp lại có thể đẩy nhanh quá trình tuổi biểu sinh của các mô.
Tiến sĩ Skowronska-Krawczyk cho biết thêm: “Ngoài việc đo lường tình trạng mất thị lực và một số thay đổi cấu trúc do căng thẳng và khả năng điều trị, thì giờ đây chúng tôi có thể đo tuổi biểu sinh của mô võng mạc và sử dụng điều này để tìm ra các chiến lược tốt nhất để ngăn ngừa tình trạng mất thị lực”.